banner

Một số bất cập thực tế về vấn đề cấp dưỡng hiện nay

 

    1. Một số bất cập thực tế về vấn đề cấp dưỡng hiện nay

a) Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ quy định về thời điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng tại Điều 114 mà không quy định thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn là bắt đầu từ lúc nào.

Vậy Tòa án có ghi thời điểm buộc người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng nuôi con vào quyết định, bản án của Tòa án không. Nếu có thì thời điểm cấp dưỡng nuôi con tính từ lúc nào. Vấn đề này hiện chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên thực tiễn đang có nhiều quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất:

Cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ có quy định về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con do vợ chồng thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì pháp luật không có quy định cụ thể thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn từ lúc nào nên Tòa án không cần phải ghi thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con vào quyết định, bản án của Tòa án.

Cho nên thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ ngày vợ hoặc chồng gửi đơn yêu cầu thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Quan điểm thứ hai:

Cho rằng mặc dù chưa có quy định cụ thể trường hợp vợ chồng ly hôn có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con thì thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ lúc nào, tuy nhiên theo khoản 1 Điều 482 của BLTTDS năm 2015 thì

“Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, …”.

Từ quy định này có thể hiểu nghĩa vụ cấp dưỡng phải được thực hiện nay khi Tòa án ban hành bản án hoặc quyết định về cấp dưỡng. Vì vậy, khi ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự hoặc ra bản án thì Tòa án cần thiết phải ghi rõ thời điểm cấp dưỡng nuôi con.

Thời điểm cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày Tòa án lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành hoặc tính từ ngày tuyên án. Cách tính thời điểm như trên sẽ đảm bảo quyền lợi của con hơn là tính từ ngày bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc tính từ ngày gửi đơn yêu cầu thi hành án như quan điểm thứ nhất.

b)Về mức cấp dưỡng:

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng chỉ quy định mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận là căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Khả năng thực tế của người có nghĩa cấp dưỡng theo khoản 1 Điều 16 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó”.

Còn theo Khoản 2 Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì: “Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng”.

Tuy nhiên nếu các đương sự không thỏa thuận được thì Tòa án căn cứ vào quy định nào để Tòa án quyết định mức cấp dưỡng thì hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.

Trước đây, Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hướng dẫn như sau:

“Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.”.

Thực tiễn giải quyết tại các Tòa án trước đây và hiện tại thường vận dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tối cao, cụ thể là

“Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con”.

Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế xã hội hiện nay thì cách làm như vậy của Tòa án không còn phù hợp nữa. Điều này dẫn đến thực tế là mức cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án chỉ mang tính chất “tượng trưng” vì không đáp ứng được chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con. Dẫn đến việc có đương sự nhiều lần nộp đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con, vừa tốn kém thời gian công sức và tiền bạc của các bên.

c) Về chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng:

Người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nếu chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì có phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ không, hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.

Có Thẩm phán buộc người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng có Thẩm phán thì không. Dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất, mất công bằng, quyền lợi.

Nghiên cứu quy định pháp luật thì thấy rằng: Theo quy định tại điều 282 Bộ luật Dân sự 2015 thì: “Nghĩa vụ được thực hiện theo định kỳ theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ.”

Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.”

Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:

“Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền
1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”

Như vậy, chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (bằng tiền) cũng có tính chất như chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền nên theo quan điểm của chúng tôi thì người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngoài ra, việc quy định như vậy nhằm hạn chế người có nghĩa vụ cấp dưỡng cố tình chậm trễ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong giai đoạn thi hành án.

2. Một số kiến nghị 

Từ thực tiễn áp dụng pháp luật về cấp dưỡng, chúng tôi kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể các vướng mắc gồm:

Một là, bản án, quyết định của Tòa án có quyết định về cấp dưỡng có ghi thời điểm cấp dưỡng hay không, nếu có thì tính từ thời điểm nào. Quan điểm tác giả đề xuất là “Bản án, quyết định của Tòa án có quyết định về cấp dưỡng thì phải ghi thời điểm cấp dưỡng. Thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành hoặc tính từ ngày tuyên án”.

Hai là, trường hợp đương sự không thỏa thuận được mức cấp dưỡng thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng như thế nào.

Quan điểm tác giả đề xuất là “Trường hợp đương sự không thỏa thuận được mức cấp dưỡng thì Tòa án căn cứ vào thu nhập thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà quyết định mức cấp dưỡng nhưng mức cấp dưỡng không thấp hơn hoặc 01 tháng lương cơ bản hoặc không thấp hơn 1/3 mức thu nhận bình quân trong 03 tháng liền kề với tháng mà Tòa án ra bản án hoặc quyết định của người có nghĩa vụ cấp dưỡng”.

Ba là, có buộc người chậm thực người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 không.

Quan điểm tác giả đề xuất “Trong Bản án, quyết định của Tòa án có quyết định về cấp dưỡng thì phải buộc người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015”. Vừa đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp của bên được cấp dưỡng và là sự răn đe đối với bên có nghĩa vụ cấp dưỡng mà lại cố tình không thực hiện nghĩa vụ.

Từ những bất cập trên có thể thấy, các quy định về cấp dưỡng vẫn còn rất chung chung, thiếu cụ thể. Điều này khiến cho tòa án khi phán xét chỉ còn biết căn cứ vào điều kiện thực tế cụ thể của từng trường hợp. Nhưng cũng vì đó mà mức cấp dưỡng mỗi nơi mỗi khác nhau.

Mặc khác, việc thiếu các chế tài cứng rắn hơn để ràng buộc những người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ của mình cũng như cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác phải có nghĩa vụ hỗ trợ cơ quan tư pháp thực hiện cũng là một cản trở không nhỏ, biến việc cấp dưỡng nuôi con thực sự trở thành “món nợ khó đòi”.

Trên đây là tư vấn của Công ty luật FBLAW chúng tôi về Một số bất cập thực tế về vấn đề cấp dưỡng hiện nay. Hỗ trợ tối đa cho khách hàng tại Nghệ An cũng như trên cả nước tất cả các vấn đề về hôn nhân gia đình.

Hãy đến với FBLAW chúng tôi để được tư vấn nhanh chóng và hiệu quả nhất nhé!