banner

Khái niệm đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh

Hành vi hạn chế cạnh tranh là gì? Đặc điểm của hành vi hạn chế chế cạnh tranh là gì? Bài viết sau đây công ty FBLAW chúng tôi sẽ giúp bạn đọc giải quyết những thắc mắc trên.

1.Khái niệm Hành vi hạn chế cạnh tranh

Theo khoản 2 điều 3 Luật cạnh tranh 2018 thì:

Là hành vi gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền.

2. Đặc điểm của Hành vi hạn chế cạnh tranh

a. Về chủ thể 

– Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên quan;

– Các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp; không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. Những hành động thống nhất của tổng công ty, của một tập đoàn kinh tế hoặc của các công ty mẹ, con, không được pháp luật cạnh tranh coi là thỏa thuận bởi thực chất các tập đoàn kinh tế nói trên cho dù bao gồm nhiều thành viên cũng chỉ là một chủ thể thống nhất.

b. Hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp có thể công khai hoặc không công khai

Để xác định các hành động của một nhóm doanh nghiệp độc lập là thỏa thuận, cơ quan có thẩm quyền phải có đủ bằng chứng kết luận rằng giữa họ đã tồn tại một hợp đồng, bản ghi nhớ, các cuộc gặp mặt cho thấy đã có một thoả thuận công khai hoặc ngầm đồng ý về giá, về hạn chế sản lượng, phân chia thị trường. Một khi chưa có sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thì chưa thể kết luận có sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải được hình thành từ sự thống nhất ý chí của các doanh nghiệp tham gia về việc thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh. Hình thức pháp lý của sự thống nhất ý chí không ảnh hưởng đến việc định danh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Do đó, chỉ cần hội đủ hai điều kiện là có sự thống nhất ý chí và các doanh nghiệp đã cùng thống nhất thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh là có thể kết luận đã có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cho dù thỏa thuận đó bằng băn bản hay lời nói, thỏa thuận công khai hay thỏa thuận ngầm. Một thỏa thuận thậm chí không cần phải có hình thức pháp lý, ví dụ trong trường hợp các doanh nghiệp thỏa thuận ngầm hoặc cùng hành động phối hợp đã không tồn tại hình thức pháp lý nào.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm cả các quyết định tập thể của các doanh nghiệp nên các quyết định của Hiệp hội ngành nghề, của các tổ chức nghề nghiệp để các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Cần phân biệt sự thống nhất ý chí và thống nhất về mục đích. Việc xác định một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, chỉ cần chứng minh rằng các doanh nghiệp tham gia đã có sự thống nhất ý chí mà không nhất thiết cần phải có cùng mục đích. Khi thống nhất thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể cùng hoặc không cùng theo đuổi một mục đích. Các doanh nghiệp có thể có những mục đích khác nhau khi cùng thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh nào đó.

Vì vậy, nếu dùng mục đích để chứng minh về thỏa thuận có thể làm giảm khả năng điều chỉnh của pháp luật.Với nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh, pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ cấm đoán các thỏa thuận gây ra hoặc có khả năng gây ra hậu quả phản cạnh tranh trên thị trường. Do đó, nếu có sự thống nhất ý chí và sự thống nhất ý chí đó gây ra hậu quả phản cạnh tranh là có thể xử lý những người tham gia thỏa thuận cho dù mục đích tham gia của họ khác nhau.

Trong việc định danh một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cơ quan có thẩm quyền không chỉ kiểm tra có sự tồn tại thực sự của một thỏa thuận hay sự thống nhất ý chí, mà còn phải khẳng định được rằng thỏa thuận đó chắc chắn xuất phát từ ý chí độc lập của các bên và không chịu sự ràng buộc từ bên ngoài. Việc tồn tại các yếu tố khách quan hoặc chủ quan làm cho các doanh nghiệp không còn độc lập về ý chí cho dù đã hoặc đang cùng thực hiện một hành vi phản cạnh tranh cũng không tạo nên một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong trường hợp này, pháp luật cạnh tranh đã sử dụng khái niệm khiếm khuyết của sự thỏa thuận ý chí trong pháp luật hợp đồng để kết luận về sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thông thường, các doanh nghiệp không độc lập về ý chí nếu thuộc một trong những trường hợp: các bên đang chịu sự ràng buộc của một văn bản luật, dưới luật nên đã thực hiện hành vi gây ra hậu quả làm hạn chế cạnh tranh, ví dụ: có quyết định của Chính phủ buộc các doanh nghiệp kinh doanh phân bón phải giảm giá bán nhằm ổn định thị trường. Trong trường hợp này, cho dù mức giá bán được đặt ra đã tạo nên rào cản cho việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp tiềm năng thì các doanh nghiệp tham gia vào việc ấn định giá không vi phạm Luật Cạnh tranh; các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn hoặc có quan hệ kiểm soát lẫn nhau. quan hệ trong nội bộ tập đoàn hoặc quyền kiểm soát của một doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác có thể làm cho các doanh nghiệp thành viên hoặc các doanh nghiệp bị kiểm soát không thực sự độc lập về ý chí. Vì thế, pháp luật cạnh tranh của các nước đều ghi nhận nguyên tắc “không thể có thỏa thuận phản cạnh tranh giữa hai doanh nghiệp trong đó doanh nghiệp này kiểm soát doanh nghiệp kia hoặc giữa những doanh nghiệp cùng đặt dưới sự kiểm soát chung của một doanh nghiệp thứ ba, hoặc giữa các doanh nghiệp hợp thành một thực thể kinh tế. Tuy nhiên, nguyên tắc này không được áp dụng một cách cứng nhắc mà cần có những phân tích và đánh giá thực tế trong từng vụ việc cụ thể. Nếu có một văn bản luật hoặc dưới luật hoặc quan hệ kiểm soát, quan hệ tập đoàn đã buộc các doanh nghiệp phải thực hiện một hành vi gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh thì hành vi tập thể của các doanh nghiệp đó không cấu thành nên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Cơ quan có thẩm quyền dễ dàng tìm ra được những bằng chứng về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đối với các thỏa thuận công khai, song tìm kiếm bằng chứng không đơn giản đối với các thỏa thuận ngầm. Trong thực tế, để đối phó với pháp luật cạnh tranh, các doanh nghiệp thường ngầm thiếp lập nên các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tẩu tán bằng chứng về thỏa thuận.  Tuy nhiên, để kết luận hành động phối hợp là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn cần thêm những bằng chứng về sự thống nhất ý chí.

c. Nội dung của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường tập trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội dung của hợp đồng.

Khi những nội dung của thỏa thuận được hình thành và thực hiện, thì các yếu tố nói trên sẽ trở thành tiêu chuẩn thống nhất không có cạnh tranh trên thị trường giữa những người tham gia thoả thuận. Nói cách khác, nội dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp thống nhất thực hiện cùng một hành vi hạn chế cạnh tranh. Dựa vào hành vi, Điều 8 Luật Cạnh tranh đã liệt kê thành những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ thể. Chỉ khi thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 8, thỏa thuận của các doanh nghiệp mới bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được xác định khi chúng đã hoặc chưa được thực hiện. Nói cách khác, việc các doanh nghiệp tham gia đã thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh đã thỏa thuận hay chưa không quan trọng trong việc định danh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Có những trường hợp cơ quan có thẩm quyền phát hiện ra thỏa thuận sau khi các doanh nghiệp thực hiện hành vi và gây hậu quả cho thị trường, song cũng có trường hợp các doanh nghiệp chỉ vừa thống nhất sẽ thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh và bị phát hiện. Tất cả những trường hợp trên đều cấu thành nên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Như vậy, chỉ cần có đủ hai điều kiện sau đây:

Thứ nhất, có bằng chứng về sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp;

Thứ hai, các doanh nghiệp thỏa thuận cùng nhau thực hiện hành vi là có thể kết luận về sự tồn tại của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

d. Hậu quả của dấu hiệu chung cho cả ba loại hành vi hạn chế cạnh tranh, là làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường

Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh nghiệp độc lập với nhau nhằm tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ với khách hàng hoặc trong quan hệ cạnh tranh với những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Thế nên hậu qủa đầu của thỏa thuận gây ra cho thị trường là xoá bỏ cạnh tranh giữa những doanh nghiệp tham gia. Khi nội dung thỏa thuận được hình thành, tạo ra những tiêu chuẩn chung về giá, về kỹ thuật, về công nghệ, về điều kiện giao kết hợp đồng… các doanh nghiệp đang từ đối thủ cạnh tranh của nhau sẽ không còn cạnh tranh với nhau nữa. Bằng sức mạnh chung (nếu sự liên kết tạo nên sức mạnh thị trường) và bằng việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia có thể gây thiệt hại cho khách hàng khi đặt ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho họ.

Cảm ơn quý khách đã đọc bài viết, trong trường hợp cần trao đổi chi tiết thêm hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ của Công Ty Luật FBLAW chúng tôi, hãy liên hệ qua email tuvanfblaw@gmail.com hoặc Hotline 038.595.3737 – 0973.098.987 để được hỗ trợ kịp thời!